by: Angel
Kiếm được người Nhật sử dụng nhiều nhất trong các cuộc chiến tranh thời phong kiến, nghe nói có nguồn gốc đầu tiên là từ Trung Quốc. Từ hình dạng thắng, cấu trúc đơn giản, khi qua Nhật Bản, nó đã được cải tiến với đường gươm lượn cong, cán dài, mang tính đặc thù của Nhật.
Nói về thời gian ra đời thì có tài liệu ghi là thế kỷ thứ 8 nhưng có tài liệu lại cho là thế kỉ thứ 10 thanh kiếm đậm chất Nhật Bản mới xuất hiện.
Ý nghĩa: Với một samurai thì thanh kiếm là một thứ không thể thiếu , nó không những chỉ là một công cụ chiến đấu lợi hại mà còn đại diện cho tinh thần chiến đấu, phẩm giá và danh dự của họ. Nó như tâm hồn của mỗi võ sĩ samurai vậy, kiếm và người như hòa làm một. "Kiếm còn người còn, kiếm mất người cũng mất" . Chính vì vậy mỗi samurai coi thanh kiếm như mạng sống của mình, không ai được quyền sở hữu, những thanh kiếm quý sẽ được lưu truyền trong dòng tộc, thế hệ trước để lại cho thế hệ sau.
Các chủng loại kiếm:
Nếu chia theo độ dài, cấu tạo thì kiếm Nhật có 3 loại:
- Trường kiếm (kiếm dài -
Tachi 太刀 hoặc
Katana 刀)
- Đoản kiếm (
Kodachi 小太刀 hay
Wakizashi 脇差) ngắn hơn một chút, cùng với kiếm dài tạo thành bộ song kiếm và kiếm ngắn, gần như dao găm (
Tanto 短刀 hoặc
Aikuchi 匕首). Kiếm ngắn dùng khi cận chiến hoặc trong nghi thức Seppuku (切腹 mổ bụng tự sát)
Nếu chia về chức năng thì kiếm Nhật gồm 2 nhóm:
- Cặp kiếm chiến đấu:
Tachi 太刀 và
Tanto 短刀.
- Cặp kiếm dân sự:
Katana 刀 và
Wakizashi 脇差.
Cặp kiếm chiến đấu thường sử dụng khi samurai mặc giáp phục. Còn khi đã cởi bỏ áo giáp thì họ chuyển sang sử dụng cặp
Katana 刀và
Wakazashi 脇差.
Katana 刀 có cấu tạo giống
Tachi 太刀, chỉ khác một chút là
Tachi 太刀 có thêm bộ phận phụ ở vỏ bao để đeo bên hông.
+
Tachi 太刀: lưỡi gươm có cấu tạo cong, chuôi dài có thể nắm bằng cả hai tay. Vỏ bao có bộ phận phụ để đeo bên hông. Dùng khi mặc giáp phục.
+
Tanto 短刀: cấu tạo giống
Tachi 太刀 nhưng ngắn, gần giống như dao găm. Dùng khi giáp chiến hoặc trong nghi thức Seppuku (切腹 mổ bụng tự sát).
+
Katana 刀: có cấu tạo giống
Tachi 太刀 nhưng không có bộ phận phụ để đeo bên hông, và dùng khi cởi bỏ áo giáp.
+
Wakazashi 脇差: có cấu tạo dài hơn
Tanto 短刀 và hợp với
Katana 刀 thành một cặp song kiếm.
Có thể nói sau một khoảng thời gian dài phát triển, môn kiếm thuật Nhật Bản Kenjutsu 剣術, với những đặc trưng riêng mới được hình thành. Những kiếm sĩ thành danh thường xây dựng một hệ thống kỹ thuật riêng, để lập nên những trường phái rồi cứ thế truyền từ đời này sang đời khác.
Tinh hoa nghệ thuật cũng theo đó dần dần phát triển thêm lên. Tuy nhiên phải đến cuối thế kỷ 14 đầu thế kỷ 15 bài tập đối luyện kiếm thuật (Kata 型) với tổ hợp động tác công - thủ - phản công có quy ước mới được nghiên cứu và đưa vào hệ thống huấn luyện. Mãi cho tới cuối thế kỷ 15, kiếm gỗ (Bokken 木剣) mới bắt đầu được sử dụng trong những buổi tập luyện.
Thời kỳ này lư thuyết chung về kiếm thuật đă được hoàn thiện nhằm mục đích huấn luyện trong giới Samurai. Không chỉ vậy lư thuyết này còn được kết hợp với tư tưởng Nho Giáo để xây dựng một triết lí về phong cách sống và hành động của giới võ sĩ đạo (Bushido 武士道).
Kiếm gỗ (Bokken 木剣)
Theo một số thư tịch cổ để lại th́ từ thế kỷ 15 - 17 trên toàn nước Nhật có khoảng 600 trường phái kiếm thuật, chưa kể đến các môn võ thuật khác. Có thể nói thời kỳ này đánh dấu một bước phát triển của nghệ thuật sử dụng kiếm, bởi trước đó thanh kiếm chỉ được coi là thứ vũ khí giết người.
Khởi đầu của bộ môn nghệ thuật kiếm phải kể tới kiếm sư Sekishu 石舟斎 (柳生宗厳) - người sáng lập trường phái
Yagyu Shinkage 柳生新陰流 dưới sự bảo trợ của tướng quân Tokugawa Ieyasu. Ông đã truyền giảng cho môn sinh của mình khái niệm về sự cảm nhận tâm linh đạt được qua việc tập luyện kiếm thuật.
Con trai của ông là
Munenori (柳生宗矩, 1571 - 1646), một kiếm sĩ tài ba sau này đã biên soạn cuốn
Fudochi - shinmyoroku (不動智神妙録) mà nội dung chủ yếu kể về kinh nghiệm trực ngộ "Thiền đạo" trong kiếm thuật.
Yagyu Shinkage 柳生新陰流 cũng như
Maniwa Nen 馬庭念流,
Shinkatato,
Ono 小野派一刀流 hay
Itto 一刀流 là những trường phái tiên phong trong khuynh hướng chuyển từ Kiếm thuật sang Kiếm đạo (Kendo 剣道). Đồng thời đưa kiếm tre (
Shinai 竹刀) vào luyện tập và thi đấu. Kiếm tre ban đầu được chế tạo bằng cách dùng 4 mảnh tre dài ghép lại đút vào một cái bao dài bằng da cóc hoặc da thuộc chưa có miếng lá chắn che tay (
Tsuba 鍔).
Sau này nó được cải tiến với bao vải thay thế bao da, thêm miếng lá chắn vào và có trọng lượng gần bằng kiếm thuật song có hình dạng thẳng.
Đến thế kỷ 18, kiếm tre và sàn tập bằng gỗ trở nên phổ biến tại các trường phái dạy kiếm, hơn thế có các dụng cụ hỗ trợ tập luyện như: giáp che ngực, mũ che đầu, găng tay bảo vệ... cũng được cách tân từ binh giáp truyền thống để trang bị cho môn sinh theo học kiếm đạo.
Sang thế kỷ 19, kiếm đạo phát triển rộng trong quần chúng cũng như nhiều môn võ khác, và nó không chỉ thu hẹp trong giới Samurai. Bằng chứng là đă có rất nhiều cuộc biểu diễn kiếm đạo được tổ chức cho công chúng xem tại những nơi sinh hoạt công cộng.
Cuối cùng, giờ đây kiếm đạo đã trở thành một trong những nét văn hoá đặc trưng truyền thống mà mỗi khi nhắc tới văn hoá Nhật Bản chúng ta không thể không kể tới sự góp mặt của nó.
Có một sự kiện làm thay đổi làng võ Nhật Bản, ảnh hưởng trực tiếp đến kiếm đạo xảy ra vào năm 1882, khi võ sư thiên tài
Kano Jigoro 嘉納治五郎 bắt đầu truyền bá môn Nhu đạo (Judo 柔道). Ông đã dày công nghiên cứu sửa đổi, sáng tạo thêm từ môn Nhu thuật (Jujutsu 柔術) cổ truyền, và cũng từ đó kiếm đạo bắt đầu thâm nhập vào học đường.
Đến năm 1912, cùng với Nhu đạo, Kiếm đạo được chính thức đưa vào chương trình huấn luyện thể dục ở bậc Trung học áp dụng trên toàn nước Nhật.